Theo VnExpress, thuật ngữ viral marketing được GS Jeffrey F. Rayport - Trường kinh doanh Harvard (Mỹ) nhắc đến trong bài báo "The Virus of Marketing" (Quảng cáo kiểu virus) trên tạp chí Fast Company vào tháng 12/1996. Thuật ngữ này sau đó được phổ biến rộng hơn vào năm 1997. Xu hướng viral marketing chính thức du nhập vào Việt Nam năm 2008 bởi một chiến dịch của nhãn hàng Close Up.
ITCNews nêu khái niệm viral marketing là làm marketing nội dung để thông tin được lan truyền từ người này sang người khác, cách làm ít tốn kém trong khi hiệu quả mang lại không hề thua kém so với những phương pháp marketing đắt tiền. Sự thành công của viral marketing phụ thuộc vào thời gian và “hệ số lan truyền”, được tính bằng số người xem mới được tạo ra từ số người xem cũ. Nếu “hệ số lan truyền” lớn hơn 1 tức là chiến dịch đang được lan tỏa đi, giảm xuống dưới 1 thì chiến dịch có nguy cơ thất bại.
Báo Lao động trong một bài viết cho rằng, viral marketing đã trở thành phương thức hiệu quả cho việc quảng bá các dịch vụ, sản phẩm của những cá nhân, tổ chức và doanh nghiệp và Facebook là phương tiện lan truyền hiệu quả nhất để thực hiện các chiến dịch viral marketing.
Đã có rất nhiều thương hiệu lớn trên thế giới và tại Việt Nam để lại tiếng vang trong lĩnh vực này. Có thể kể đến chiến dịch marketing đặc biệt của Sony Walkman cuối thể kỷ XX khi gây tò mò cao độ bởi hàng loạt thanh niên đi trên phố với đôi tai nghe và gật gù theo tiếng nhạc. Gần đây, chỉ với câu hỏi đơn giản "Chiếc váy này màu gì?" đã gây nên một cơn sốt trên mạng xã hội. Roman - một hãng thời trang nhỏ tại Anh, nơi sản xuất ra chiếc váy gây tranh cãi này cho biết doanh số bán chiếc váy đã tăng gần 4,5 lần trong ngày 27/2/2015 với giá bán 77 USD mỗi chiếc.
Tại Việt Nam, ngoài chiến dịch đầu tiên được ghi nhận thành công vào năm 2008 của Close Up thì cũng đã có khá nhiều thương hiệu thành công. Gần đây nhất có thể kể đến loạt viral video của Coca-Cola có tên "2ndLives", "Happiness Truck" hay trào lưu in tên người lên lon Coca-Cola...
Con người và phương tiện trong tay họ ngày nay cũng được huy động tối đa trong viral marketing.
VnEconomy đưa ra lưu ý trong một bài viết cho biết: "Đã có những doanh nghiệp bỏ ra cả trăm triệu đồng để làm viral video, nhưng số lượt xem còn ít hơn cả số nhân viên của họ". Một trong những nguyên nhân được phân tích là do những chiến dịch này "không theo quy trình chuẩn, không có chiến dịch dài hơi, không có cái nhìn tổng thể, quá hấp tấp và võ đoán".
Theo Foman.vn, trang thông tin của một công ty hoạt động trong lĩnh vực thông tin và truyền thông, "con dao luôn luôn có hai lưỡi", dù quảng cáo virus làm người dùng bực mình nhưng họ vẫn cứ thích tranh luận về nó, cứ một khách hàng hài lòng sẽ kể cho ít nhất 3 người nữa về sản phẩm mà họ thích và 11 người khác về sản phẩm, dịch vụ mà họ không thích.
Trang này đưa ra ví dụ một video clip được cho là "vô thưởng vô phạt" mô tả một người đánh bom liều chết bằng xe Volkswagen đã "lây nhiễm" đi toàn thế giới với hàng triệu lượt tải trên mạng internet. "Volkswagen phải chật vật lắm mới có thể giải quyết được tai họa đó.", Foman.vn cho biết.
Foman.vn khuyên doanh nghiệp cần theo dõi, phân tích về hiệu quả chiến dịch để có thể điều chỉnh nguồn lực nội tại, chất lượng sản phẩm dịch vụ đáp ứng được những biến chuyển kinh doanh do hiệu ứng của chiến dịch mang lại bởi một chiến dịch marketing virus đôi khi vượt quá mong đợi hoặc dự trù của người làm marketing. Ví dụ, máy chủ có thể sẽ bị sập chỉ vài giờ sau khi tung ra một chiến dịch marketing virus cực kỳ hiệu quả.
VnExpress phân tích về sự thành công của một chiến dịch viral marketing: "Nội dung thật tự nhiên, hài hước, chứa đựng những điều ngạc nhiên, thú vị khiến người xem thích thú đến mức muốn gửi ngay cho bạn bè. Những chiến dịch này có thể gây ra nhiều phản ứng trái chiều với đủ những khen - chê, thán phục - nghi ngờ nhưng vẫn đạt được mục đích ban đầu: càng nhiều người biết đến thương hiệu càng tốt".
PHẠM HÀO (tổng hợp)